Thân thế Long_Dụ_Hoàng_thái_hậu

Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu Diệp Hách Na Lạp thị.

Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu sinh ngày 10 tháng giêng (âm lịch) năm Đồng Trị thứ 7 (1868), xuất thân cùng gia tộc với Từ Hi Thái hậu, tức Diệp Hách Na Lạp thị của Mãn Châu Tương Hoàng kỳ. Sử kí không ghi rõ tên thật của bà. Căn cứ theo Ái Tân Giác La gia tộc toàn thư (爱新觉罗家族全书), phần Doan Đài khấp thuyết ký (瀛台泣血记) của Dụ Đức Linh thì nguyên danh của bà là Tĩnh Phân (靜芬), nhũ danh Hỉ Tử (喜子).

Thực tế dòng dõi Hoàng hậu được gọi là Tô Hoàn Na Lạp thị (苏完那拉氏)[2]. Dòng dõi Na Lạp thị này thế cư Tô Hoàn, mà Tô Hoàn vốn ở trong lãnh thổ Diệp Hách, vài đời sau cứ lấy thế cư Diệp Hách, tạo thành ra "Diệp Hách Na Lạp thị" ngộ nhận. Tổ tiên Khách Sơn (喀山), nhậm [Nhất đẳng Nam] cùng Thế quản tá lĩnh. Dưới đời tằng tổ phụ Cát Lang A (吉朗阿) là một chi tiểu tông, đành phải qua xuất sĩ mà tiến thân. Có thể nói dòng dõi của Từ Hi cùng Long Dụ về cơ bản là tiểu tông, gia đình trung hạng thuộc hạng tầm trung bình thường, và hoàn toàn không liên quan đến dòng dõi Diệp Hách Na Lạp thị của Kim Đài Cát.

Trước khi Từ Hi Thái hậu nhập cung làm phi tần của Thanh Văn Tông Hàm Phong Đế, gia tộc không mấy tiếng tăm, nhưng vào thời điểm Long Dụ trưởng thành thì gia tộc đã vọng trọng, do Từ Hi đã trở thành Hoàng thái hậu. Tổ phụ của Long Dụ là Huệ Trưng (惠征), tổ mẫu là Phú Sát thị thuộc Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, mẹ đẻ Từ Hi Thái hậu. Huệ Trưng và Phú Sát thị có với nhau ba con trai và ba con gái, trong đó cha của Long Dụ, tên Quế Tường (桂祥) là con trai thứ hai, cũng là em trai của Từ Hi Thái hậu. Ngoài Quế Tường, Từ Hi Thái hậu còn có người em gái tên Uyển Trinh, sinh mẫu của Quang Tự Đế. Theo vai vế gia tộc, Hoàng hậu là cháu gọi Từ Hi Thái hậu bằng cô, và là biểu tỷ của Quang Tự Đế.

Khi Quế Tường nhậm chức Phó Đô thống, đã có hai con trai và ba con gái, trong đó Long Dụ là trưởng nữ, cũng là con cả của gia đình. Bá phụ của Hoàng hậu là Chiếu Tường (照祥), vì là ngoại thích của Hoàng hậu, nên gia phong tước hiệu dành cho ngoại thích là [Tam đẳng Thừa Ân công], nhậm Hộ quân Thống lĩnh, sang năm Quang Tự thứ 7 thì qua đời, để tước vị lại cho con trai tên Đức Thiện (德善). Thúc phụ của bà là Phật Hựu (佛佑), nhậm Nhất đẳng Thị vệ.

Hoàng hậu còn có ba người cô, tất cả đều được gả cho Hoàng tộc Ái Tân Giác La: một người là Từ Hi Thái hậu, phi tần của Hàm Phong Đế; người thứ hai gả cho em trai Khánh Mật Thân vương Dịch Khuông; và người thứ 3 là Uyển Trinh, Phúc tấn của Thuần Hiền Thân vương Dịch Hoàn. Ngoài ra, Long Dụ còn có một thúc tổ phụ tên Huệ Xuân (惠春), là em họ của Huệ Trưng, nhưng nhỏ tuổi hơn Huệ Trưng rất nhiều, khi đó nhậm lĩnh Tam đẳng Thị vệ.